Trang chủ

NƠI YÊN TÂM ĐỂ CHIA SẺ VÀ ỦY THÁC

HTC Việt Nam mang đến "Hạnh phúc -Thành công - Cường thịnh"

Tư vấn pháp luật 24/24

Luật sư có trình độ chuyên môn cao

TRAO NIỀM TIN - NHẬN HẠNH PHÚC

CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỐT NHẤT

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

giảm thiếu chi phí- tiết kiệm thời gian

​Tổng hợp 27 bản án và quyết định giám đốc thẩm nổi bật về các tội xâm phạm quyền sở hữu

Tổng hợp 27 bản án và quyết định giám đốc thẩm nổi bật về các tội xâm phạm quyền sở hữu

Hiện nay, vấn đề xâm phạm quyền sở hữu đang diễn ra ngày một phổ biến và tinh vi hơn. Vậy trong những vụ án về tội xâm phạm quyền sở hữu, Tòa án các cấp Việt Nam đang xử lý như thế nào? Hãy cùng Công ty Luật HTC Việt Nam tìm hiểu một số bản án, quyết định giám đốc thẩm nổi bật về các tội xâm phạm quyền sở hữu qua bài viết tổng hợp dưới đây (cập nhật đến 04/2022).

Hệ thống bản án và quyết định giám đốc thẩm nổi bật về các tội xâm phạm quyền sở hữu gồm có:

1. Bản án số 107/2019/HS-PT ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn S về hành vi chặt phá cây của bị hại Hoàng Văn A; tuyên phạt các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn S – 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Hủy hoại tài sản”.

2. Bản án số 120/2019/HS-PT ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiên Giang đối với bị cáo Lê Thị C có hành vi chiếm giữ tài sản của bị hại Bế Thị Ánh T. Tuyên phạt bị cáo C – 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Chiếm giữ tài sản trái phép”.

3. Bản án số 72/2019/HS-ST ngày 10/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đối với các bị cáo Trần Văn C1, Đỗ Văn C2, Chu Đình H về hành vi khống chế và bắt giữ bị hại Nguyễn Minh A, Ngân Khánh L nhằm nhằm đòi tiền Lữ Duy T. Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” tuyên phạt C1, C2 – 03 năm tù, H – 05 năm tù.

4. Bản án số 105/2019/HS-PT ngày 15/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ có hành vi bắt bị hại Ngô Văn L, thực hiện hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản. Tòa án chấp nhận kháng cáo của Viện kiểm sát tuyên Đ, S phạm tội “Cướp tài sản” và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra lại.

5. Bản án số 46/2019/HS-ST ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Danh A có hành vi dùng dao sếp kề vào cổ bị hại Nguyễn Hào H nhằm mục đích chiếm đoạt chiếc ô tô trị giá 400.000.000 đồng. Bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản thì bị phát hiện và bắt giữ. Việc bị cáo không chiếm đoạt dược tài sản là ngoài ý muốn của bị cáo. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tuyên phạt 7 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.

6. Bản án số 308/2019/HS-PT ngày 05/6/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với các bị cáo Huỳnh Công Th, Huỳnh Minh Th1, Trần Thế Kinh L, Phan Mộng H2, Nguyễn Thị Thu H4, Nguyễn An N1, Mai Thị Ngọc H6, Hoàng Thái H8, Tạ Minh Ng1 về các hành vi thành lập và sử dụng tư cách pháp nhân của 03 công ty lập khống các bộ hồ sơ để vay vốn và hồ sơ giải ngân để ký các Hợp đồng tín dụng nhằm để BIDB TSG, ký khống hợp đồng, hóa đơn,… nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản,…; tuyên Th, L, H2, H4, B1, H6 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, H2, H8, Ng1 H7 phạm tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

7. Bản án số 387/2019/HS-PT ngày 28/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Nguyễn Thị N đã có hành vi đe dọa tung ảnh nhạy cảm của bị hại Mè Văn Đ nhằm chiếm đoạt tài sản, tuyên phạt bị cáo N 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

8. Bản án số 260/2019/HS-PT ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội đối với bị cáo Trần Đức Ch đã có hành vi nhận tiền do Ocean Bank chi chăm sóc khách mà không báo cáo, không nộp và hạch toán vào nguồn thu của Viện Dầu khí Việt Nam mà sử dụng vào mục đích cá nhân; tuyên phạt bị cáo Trần Đức Ch mức án 18 tháng tù về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.

9. Bản án số 53/2019/HS-PT ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đối với bị cáo Lê Thanh T đã có hành vi giật lấy điện thoại của bị hại; tuyên bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”.

10. Bản án số 88/2019/HS-PT ngày 07/03/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Đặng Trần H, Đặng Thị Ngọc L1 về hành vi sử dụng trái phép tài sản, tuyên các bị cáo Đặng Trần H, Đặng Thị Ngọc L1 phạm tội “Sử dụng trái phép tài sản”.

11. Bản án số 32/2019/HS-ST ngày 21, 22/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với các bị cáo Vũ Mạnh T, Nguyễn Hoài G, Phạm Xuân Q, Đinh Văn N phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.Tuyên bị cáo Vũ Mạnh T – 08 năm tù, bị cáo Nguyễn Hoài G – 07 năm tù, bị cáo Phạm Xuân Q – 06 năm tù, bị cáo Đinh Văn N – 04 năm tù.

12. Bản án số 02/2019/HS-PT ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đối với bị cáo Nguyễn Văn Sĩ T đã có hành vi vào phòng trọ của bị hại Trương Thị Mỹ HI dùng vũ lực đe dọa để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của chị Hl và có hành vi lén lút vào nhà Trần Văn K, trộm cắp một số tài sản; tuyên Nguyễn Văn Sĩ T phạm tội “Hiếp dâm”“Trộm cắp tài sản” tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là 03 năm 06 tháng tù.

13. Bản án số 04/2019/HS-PT ngày 03/01/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh G có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

14. Bản án số 106/2018/HS-PT ngày 18/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đối với bị cáo Phan Minh T dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của bị hại Nguyễn Thị T; tuyên phạt bị cáo T – 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

15. Bản án số 89/2018/HS-PT ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đối với bị cáo Phạm Văn P, Đặng Văn H có hành vi đột nhập nhà Hoàng Thị H, Nguyễn Văn H nhằm trộm cắp tài sản.

16. Bản án số 396/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên đối với bị cáo Hà Văn T về hành vi trộm cắp tài sản của bị hại tại trường Cao đăng Kinh tế – Tài chính Thái Nguyên. Tại phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt bị cáo Hà Văn T – 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

17. Bản án số 149/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố Bình Dương đối với bị cáo Nguyễn Văn K, Lê Minh N có hành vi trộm cắp tài sản. Tại phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án nhận định vì các bị cáo có động cơ tư lợi, bản chất tham lam, lười lao động, muốn có tiền tiêu xài mà không phải tốn công sức lao động nên thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tòa án tuyên K, N – 14 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

18. Bản án sơ thẩm số 19/2018/HS-ST ngày 09/05/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú tỉnh Bình Phước đối với bị cáo Nguyễn Văn T lợi dụng sơ hở và hoàn cảnh khó khăn trong việc truy đuổi của người bị hại để công khai chiếm đoạt tài sản. Trước đó, bị cáo bị tuyên án về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 32/2015/HSPT ngày 08/4/2015. Bản án sơ thẩm tuyên bị cáo T phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”, buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 03 năm 06 tháng tù.

19. Bản án số 02/2018/HS-PT2 ngày 05/4/2018 của Tòa án Quân sự Trung ương đối với bị cáo Lưu Thị Kim N, Lưu Thị Kim C dùng thủ đoạn gian dối đưa ra nhiều thông tin không đúng sự thật về việc có khả năng nắm thông tin các đối tượng phạm tội ma túy và lo cho bị hại không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy để chiếm đoạt tài sản của bị hại để sử dụng vào mục đích cá nhân. Tại Bản án sơ thẩm, Toàn án tuyên phạt bị cáo N, C – 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án vì đã cố gắng khắc phục hậu quả của vụ án và điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn. Tòa án không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

20. Bản án số 550/2017/HSPT ngày 12/10/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Trần Trung D – Hiệu trưởng Trường Trung cấp Thể dục thể thao thành phố C và các đồng phạm khác có hành vi thiếu trách nhiệm gây thất thoát 1.800.000.000 đồng cho Trường Trung cấp Thể dục thể thao thành phố C. Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên D, H phạm tội “Tham ô tài sản”, D và L1 phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp”. Xử phạt bị cáo Trần Trung D – 04 năm tù, bị cáo Huỳnh Hữu H – 02 năm tù .Các bị cáo đều có đơn kháng cáo. Tòa án không chấp nhận kháng cáo của D, H đồng thời giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

21. Bản án số 62/2017/HS-PT ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đối với bị cáo Trần Thị U vì động cơ vụ lợi và sự thiếu hiểu biết, sự nhẹ dạ, cả tin của nhiều người thông qua hình thức xem bói có hành vi gian dối, lừa gạt chiếm đoạt tài sản. Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt bị cáo U – 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo U có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án. Bản án phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần Bản án về án phí đồng thời tuyên bị cáo Trần Thị U phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

22. Quyết định Giám đốc thẩm sô 30/2017/HS-GĐT ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với bi cáo Trần Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, “Chứa chấp và tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có”.Biên bản nghị án của Hội đồng xét xử phúc thẩm thể hiện không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án phúc thẩm lại quyết định chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công T, hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm. Do vậy, hủy một phần Bản án phúc thẩm và một phần Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử lại.

23. Quyết định giám đốc thẩm số 28/2017/HS-GĐT ngày 03/7/2017 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với bị cáo Mai Văn D, Phan Thị T về tội “Trộm cắp tài sản”. Hội đồng định giá tài sản căn cứ vào 03 tiêu chuẩn thẩm định gia, quyết định chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước để làm căn cứ định giá tài sản là không đúng quy định, văn bản đã hết hiệu lực tại thời điểm định giá. Ngoài ra còn lấy đơn giá vàng tại Cổng thông tin vật giá vì Cổng thông tin vật giá không phải là căn cứ để xác định giá vàng. Do đó, hủy Bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để điều tra lại.

24. Quyết định giám đốc thẩm số 29/2017/HS-GĐT ngày 03/7/2017 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với bị cáo Lê Văn D và Ngô Thị L về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” và tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hành vi chiếm đoạt 91.000 đồng của D, L phạm vào tội “Cưỡng đoạt tài sản”, còn hành vi chiếm giữ 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 01 chiếc xe mô tô biển kiểm sát 47M9-7870, do tổng giá trị tài sản là 5.700.000đ nên chưa đủ cấu thành tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”. Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng, hành vi buộc ông T viết giấy bồi thường 15.000.000đ, giữ tài sản là chiếc xe mô tô, điện thoại di động là cấu thành tội “Cướp tài sản”, nhận định của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk và Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk là chưa chính xác. Do đó, hủy Bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để điều tra lại.

25. Bản án số 82/2017/HS-PT ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đối với bị cáo Nguyễn Quốc T đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản là 01 xe mô tô của bị hại Đặng Xuân V, trộm cắp xe mô tô của bị hại Hồ Thị K. Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt T – 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án. Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án xét không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo nên không chấp chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

26. Quyết định giám đốc thẩm số 12/2016/HS-GĐT ngày 04/8/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đối với bị cáo Trần Thị Quý P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Trốn thuế” với mức án là 20 năm 03 tháng tù.

27. Bản án số 965/2012/HS-PT ngày 21/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Trần Phi L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đức L1, Lương Sơn H, Bùi Thị D có hành vi côn đồ, hung hãn, dùng vũ lực và sử dụng hung khí nguy hiểm để uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại là anh H. Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên phạt L, L1 với mức án 08 năm tù; T, H1 và D – 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo T và L có kháng cáo cho rằng mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là quá nặng và xin giảm nhẹ án. Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nhận định T và L đều là người bị rủ rê nhưng cả hai thực hành rất tích cực, các bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Phi L và Nguyễn Văn T xin giảm nhẹ án, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

Quý bạn đọc xem và tải tài liệu đầy đủ tại: Tổng hợp 27 bản án và quyết định giám đốc thẩm về các tội xâm phạm quyền sở hữu

Rất mong được hợp tác lâu dài cùng sự phát triển của Quý Khách hàng.

Trân trọng!

(Người viết: Vũ Thị Thanh Nhàn/184; Ngày viết: 13/04/2022)


Để được tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam.

Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.

ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]

Website: https://htc-law.com ; https://luatsuchoban.vn

------------------------------------------------------------------

Bài viết liên quan:

- Thế nào là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu

- Các xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu

- Quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của doanh nghiệp nước ngoài

- Nhóm lập web phim lậu Phimmoi.net phải đối diện với mức án nào?

- Băn khoăn của Thủ tướng và nỗi khổ của chị bán thịt lợn bị hắt dầu luyn!



Gọi ngay

Zalo