Trang chủ

NƠI YÊN TÂM ĐỂ CHIA SẺ VÀ ỦY THÁC

HTC Việt Nam mang đến "Hạnh phúc -Thành công - Cường thịnh"

Tư vấn pháp luật 24/24

Luật sư có trình độ chuyên môn cao

TRAO NIỀM TIN - NHẬN HẠNH PHÚC

CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỐT NHẤT

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

giảm thiếu chi phí- tiết kiệm thời gian

​Tổng hợp 10 bản án tiêu biểu về giải quyết vấn đề ly hôn khi vợ/chồng mất tích

Tổng hợp 10 bản án tiêu biểu về giải quyết vấn đề ly hôn khi vợ/chồng mất tích

Hiện nay, ly hôn không còn là vấn đề xa lạ, bởi khi mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên có thể thỏa thuận về vấn đề trên. Vậy còn trường hợp khi vợ/chồng mất tích thì giải quyết như thế nào, một bên có thể ly hôn được không? Quá trình giải quyết trong thực tế của Tòa án Việt Nam đang diễn ra như thế nào? Dưới đây là tổng hợp 10 bản án giải quyết vấn đề ly hôn khi vợ/chồng mất tích.

1. Bản án số 06/2017/HNGĐ-ST ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”

Anh Vũ Đức T và chị Vũ Thị A, kết hôn với nhau vào năm 2006, hai bên tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn. Do xích mích với mẹ chồng, chị A bỏ nhà ra đi từ đó cho đến nay không rõ chị A đi đâu. Đến năm 2016 anh T đã làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị Vũ Thị A mất tích và được chấp thuận. Để đảm bảo quyền lợi của mình, anh đề nghị Tòa án cho anh được ly hôn với chị Vũ Thị A. Anh và chị Vũ Thị A có 01 con chung, cháu Vũ Thị Lan P, hiện nay cháu P đang ở với anh.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử cho ly hôn giữa anh T và chị A. Giao cho anh T có trách nhiệm trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc này hoàn toàn đúng theo quy định pháp luật.

2. Bản án số 351/2017/HNGĐ – ST ngày 14/08/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long về việc “Tranh chấp ly hôn”

Anh Phạm Hồng C và chị Phạm Thị H kết hôn trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn. Do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi cọ dẫn đến mất hạnh phúc. Hai vợ chồng cũng không có con chung. Đến tháng 5/2009, chị H bỏ đi biệt tích cho đến nay mà không liên lạc được. Sau đó anh C thông báo tìm kiếm chị H và yêu cầu TAND huyện Tam Bình tuyên bố chị H mất tích để giải quyết yêu cầu ly hôn.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Cho ly hôn giữa anh Phạm Hồng C và chị Phạm Thị H. Về con chung, tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án.

3. Bản án số 77/2017/HNGĐ – ST ngày 27/12/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An về việc "Tranh chấp ly hôn"

Anh Hoàng Văn T và chị Hồ Thị H kết hôn nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày. Sau khi kết hôn vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Đến năm 2009, chị H vay nợ nhiều người và mất khả năng trả nợ nên đã bỏ nhà đi. Sau thời gian tìm kiếm, anh T đã yêu cầu TAND thị xã Cửa Lò tuyên bố mất tích đối với chị H và được chấp thuận. Để ổn định cuộc sống anh T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Hai vợ chồng có 02 con chung một cháu đã trưởng thành, tự nuôi sống bản thân nên anh T không có yêu cầu gì, còn một cháu còn nhỏ nên anh T trực tiếp nuôi.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: anh Hoàng Văn T được ly hôn với chị Hồ Thị H. Giao con chung là Hoàng Quốc V cho anh Hoàng Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị Hồ Thị H.

4. Bản án số 05/2017/HNGĐ – ST ngày 08/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định về việc "Ly hôn giữa chị M và anh C"

Chị Nguyễn Thị M kết hôn với anh Nguyễn Văn C và có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc tại nhà bố mẹ đẻ anh C. Đến đầu năm 2014, anh C không rõ lý do vì sao đã bỏ nhà đi khỏi địa phương mà không có bất cứ thông báo gì. Sau thời gian tìm kiếm, Chị Nguyễn Thị M đã có đơn đề nghị Tòa án tuyên bố anh C mất tích và được chấp thuận. Chị C đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh C. Hai vợ chồng có 01 con chung, ở cùng chị M.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị M.

5. Bản án số 04/2018/HNGĐ – ST ngày 16/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng về việc “Tranh chấp xin ly hôn”

Anh M và chị T kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại tỉnh Lâm Đồng. Do khó khăn về kinh tế gia đình nên vợ chồng thường cãi vã nhau. Kể từ tháng 02/2014 chị T đã mang theo 02 con chung bỏ đi cho đến nay. Sau rất nhiều lần tìm kiếm nhưng không có tin tức. TAND huyện Đức Trọng đã tuyên bố chị T mất tích. Hiện nay anh M xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Trịnh Khắc M. Cho anh Trịnh Khắc M được ly hôn với chị Nguyễn Thị Huỳnh T.

6. Bản án số 05/2018/HNGĐ – ST ngày 18/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế về việc “Tranh chấp, yêu cầu ly hôn, nuôi con”

Anh P và chị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Khoảng năm 2011, do cuộc sống kinh tế gia đình quá khó khăn, nên chị H đã bỏ nhà đi, kể từ đó cho đến nay chị H không hề có liên hệ gì với gia đình. Sau nhiều lần tìm kiếm chị H để giải quyết việc ly hôn nhưng vẫn không có tin tức gì, anh P đã yêu cầu Toà án tuyên bố chị H mất tích. Hai vợ chồng có 02 người con chung.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn P, cho anh Nguyễn Văn P được ly hôn với chị Nguyễn Thị Bích H.

7. Bản án số 02/2018/HNGĐ – ST ngày 22/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng về việc “Tranh chấp ly hôn”

Ông T và bà Bùi Thị Thanh kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyên và có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Tháng 12/2005, bà C tự ý bỏ nhà đi do làm ăn thua lỗ, ông T đã đi tìm kiếm khắp nơi nhưng không biết bà C ở đâu, ông đã làm thủ tục tuyên bố mất tích ngày từ khi Toà tuyên bố bà C mất tích đến nay bà C cũng không trở về. Nay ông làm thủ tục xin ly hôn cùng bà C. Vợ chồng có 02 con chung đang ở với ông, cháu H đã trưởng thành còn cháu Đ ông yêu cầu được nuôi con cho đến khi trưởng thành.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử cho ly hôn giữa ông Bùi Ngọc T và bà Bùi Thị Thanh C. Giao con Bùi Gia Đ cho ông T nuôi cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi.

8. Bản án số 05/2018/HNGĐ – ST ngày 30/03/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc “Tranh chấp ly hôn với người mất tích”

Anh Nguyễn Đức Ch và chị Đặng Thị Kim Th đăng ký kết hôn tại UBND xã SN, huyện Châu Đức, Bà Rịa- Vũng Tàu, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Tháng 10/2008, anh Ch bỏ nhà đi, gia đình không biết đi đâu. Chị Th và gia đình tìm kiếm khắp nơi nhưng không có tin tức của anh Ch. Chị Th đã có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố anh Ch mất tích và được chấp thuận. Sau đó, chị Th khởi kiện tới Tòa án nhân dân huyện Châu Đức để yêu cầu xin ly hôn. Hai vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Đức T, cháu T có nguyện vọng sống với chị Th.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chị Đặng Thị Kim Th được ly hôn anh Nguyễn Đức Ch, chị Đặng Thị Kim Th được tiếp tục nuôi con chung.

9. Bản án số 10/2018/HNGĐ – ST ngày 18/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Về việc “Tranh chấp ly hôn với người mất tích”

Anh Nguyễn Đ và chị Trần Thị L kết hôn với nhau tại UBND xã QT, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trên cở sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn một thời gian đến giữa năm 2006 lúc này vợ chồng không còn tin tưởng nhau nên thường xuyên cải vã, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Sau đó chị L tự ý bỏ nhà ra đi, sau một thời gian tìm kiếm,anh Đ đã có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị L mất tích với lý do để xin ly hôn và được chấp thuận. Hai vợ chồng có 01 con chung và cháu có nguyện vọng sống với anh Đ.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Anh Nguyễn Đ được ly hôn chị Trần Thị L, anh Đ tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng.

10. Bản án số 02/2018/HNGĐ – ST ngày 14/05/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”

Bà M và ông T kết hôn tại UBND xã C, tỉnh Đắk Lắk năm1986. Hai vợ chồng chung sống hạnh phúc và sinh được 04 người con, đến năm 1998 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, sau đó ông T bỏ đi làm ăn xa, khoảng 3 năm ông T mới về nhà một lần. Lần cuối cùng ông T về nhà là vào năm 2012, rồi lại bỏ đi cho đến nay không thấy về.

Sau nhiều lần tìm kiếm nhưng không được, bà M làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố ông Phan Vĩnh T mất tích, để có căn cứ giải quyết việc ly hôn và được chấp thuận. Các con chung đã trưởng thành, ổn định nên bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi con chung.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Bà M được ly hôn với ông T.

Quý bạn đọc xem và tải tài liệu tại: Tổng hợp các bản án giải quyết vấn đề ly hôn khi vợ/chồng mất tích.

Rất mong được hợp tác lâu dài cùng sự phát triển của Quý Khách hàng.

Trân trọng!

(Người viết: Trần Thị Như Quyên; Ngày viết: 16/4/2022)


Để được tư vấn chi tiết xin vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH HTC Việt Nam.

Địa chỉ: Tầng 15, Tòa nhà đa năng, Số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội.

ĐT: 0989.386.729; Email: [email protected]

Website: https://htc-law.com ; https://luatsuchoban.vn

---------------------------------------------------------

Bài viết liên quan:

- Tổng hợp văn bản pháp luật hiện hành về hôn nhân gia đình

- Tư vấn ly hôn nhanh tại Hà Nội

- Tư vấn về đơn phương ly hôn

- Tư vấn về thủ tục thuận tình ly hôn

- Thủ tục ly hôn với người mất tích



Gọi ngay

Zalo